Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng LỚP HỌC HẠNH PHÚC

doc 31 trang Minh Nguyệt 12/06/2025 30
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng LỚP HỌC HẠNH PHÚC", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_xay_dung_lop_hoc_hanh_phuc.doc

Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng LỚP HỌC HẠNH PHÚC

  1. PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HUYỆN NGHĨA HƯNG TRƯỜNG TIỂU HỌC NGHĨA MINH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: “Xây dựng LỚP HỌC HẠNH PHÚC” Tác giả: LƯU THỊ LÀNH Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Tiểu học Chức vụ: Giáo viên Tiểu học Đơn vị: Trường Tiểu học Nghĩa Minh Nghĩa Minh, tháng 7 năm 2020
  2. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Tên sáng kiến kinh nghiệm: “Xây dựng LỚP HỌC HẠNH PHÚC” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: - Môi trường Giáo dục Việt Nam - Những người làm công tác Giáo dục và Đào tạo 3. Thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Từ ngày 12 tháng 9 năm 2015 đến ngày 3 tháng 7 năm 2020 4. Tác giả Họ và tên: LƯU THỊ LÀNH Năm sinh: 1989 Nơi thường trú: xã Nghĩa Châu, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Chức vụ công tác: Giáo viên Tiểu học Nơi làm việc: Trường Tiểu học xã Nghĩa Minh Điện thoại: 0384. 391 633 Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100% 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Tên đơn vị: Trường Tiểu học xã Nghĩa Minh Địa chỉ: xã Nghĩa Minh, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định
  3. MỤC LỤC MỤC TIÊU ĐỀ CÁC PHẦN TRANG I. Điều kiện, hoàn cảnh tạo ra sáng kiến 2 II. Mô tả giải pháp 3 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến 3 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến 4 2.1. Xây dựng hình ảnh NGƯỜI THẦY (NHÀ GIÁO 4 DỤC), chứ không phải “THỢ DẠY” 2.2. Người thầy là NGƯỜI TRUYỀN CẢM HỨNG 6 2.3. Chấp nhận sự khác biệt của người học 10 2.4. Kỉ luật không nước mắt 17 2.5 Kích thích sự sáng tạo nơi học trò 21 III. Hiệu quả do sáng kiến đem lại 23 IV. Cam kết không sao chép, vi phạm bản quyền 28
  4. 2 BÁO CÁO SÁNG KIẾN: I. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN: Giáo dục – Đào tạo (GD&ĐT) là cơ sở để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược con người của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Chính sách GD là quốc sách hàng đầu được thể hiện trong Điều 35 của Hiến pháp 1992: “GD&ĐT là quốc sách hàng đầu”, năm 2001 thì được sửa thành: “Phát triển GD là quốc sách hàng đầu”. Như vậy, cho thấy Đảng và Nhà nước ta đã xác định tầm quan trọng của GD. Thế nhưng, làm thế nào để có những con người làm GD và sản phẩm của GD (HS) thật sáng tạo và hạnh phúc thì chưa mấy quan tâm và chú trọng đầu tư. Sở dĩ tôi nói như thế bởi vì tôi xét thấy nền GD Việt Nam còn nặng về truyền tải kiến thức, mà việc này thì máy móc (robot) có thể làm tốt hơn GV chúng ta. Còn việc truyền tải trí thông minh, cảm xúc, mối quan hệ người – người thì chỉ có con người mới có thể làm được (GV). Và tôi cũng được biết rằng: “Dạy học không phải là đổ đầy mà là nhóm lên ngọn lửa từ mỗi HS”, “Người thầy trung bình chỉ biết nói, người thầy giỏi biết giải thích, người thầy xuất chúng biết minh họa, người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”. Qua 10 năm dạy học và chủ nhiệm, tôi nhận thấy mình cũng đã dần trưởng thành hơn nhiều nhưng tôi vẫn muốn đi “Xây dựng LỚP HỌC HẠNH PHÚC”. Ở đó, cả tôi và học trò được hạnh phúc thực sự để khi nhìn lại dấu ấn nghề nghiệp của mình, ngoài những thành tích cao được nhận, tôi có cả những cái ôm thật chặt của HS rồi mỗi thế hệ HS hôm nay do tôi dạy sẽ góp phần làm đẹp cho đất nước trong 15 năm sau, 20 năm sau, và trò cũng thực sự hạnh phúc.
  5. 3 Ảnh: Cô và trò rơi lệ, bịn rịn trong ngày tổng kết năm học 2014-2015 II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP: 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến: Giáo dục Việt Nam từ xưa tới nay luôn đề cao chất lượng nhưng định hướng thì vẫn còn mang nặng kiến thức. Cộng thêm vào đó, những người làm GD đều nhiệt tình, chăm chỉ nên về tổng quan mà nói thì chất lượng GD Việt Nam trong một thời gian dài luôn được nâng lên. Thế nhưng, điều đó chỉ có thể phù hợp với thời đaị đó (thời đại của những năm “một chín tám mấy”). Trong khi, xã hội ngày một thay đổi, khi công nghệ ngày càng lên ngôi mà những người làm GD vẫn “duy trì một ý chí” cũ thì không chỉ không phù hợp mà nó còn có thể rất nguy hiểm cho những thế hệ vàng người Việt Nam trong những năm “hai nghìn không trăm ”. Người làm GD trong những năm qua cũng chưa thực sự quan tâm tới mặt cảm xúc trong các hoạt động GD. Nếu có thì chút ít hoặc chỉ trên khẩu hiệu. Những năm gần đây, họ có đổi mới nhưng chỉ ở một bộ phận và vẫn còn rất nhiều người còn mang nặng tư duy truyền thụ kiến thức. Điều này, máy móc, công nghệ có thể
  6. 4 làm được và còn có thể làm tốt hơn con người. Nhưng có một thứ mà không công nghệ nào có thể làm thay con người được, đó là cảm xúc. Do vậy, sau khi đã nghiên cứu và trải nghiệm, tôi xin được đề xuất một số giải pháp để khắc phục những hạn chế kể trên: 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: 2.1 Xây dựng hình ảnh NGƯỜI THẦY (NHÀ GIÁO DỤC), chứ không phải “ THỢ DẠY” Để có được Một lớp học hạnh phúc thì HS phải được hạnh phúc. Để có được những HS hạnh phúc thì người cần thay đổi trước tiên phải là người thầy. Từ xưa tới nay, người Việt Nam vẫn tôn trọng gọi người bên trang giáo án, cầm phấn viết bảng, dạy học trò, là người thầy (thầy giáo/ cô giáo). Giờ đây, sự tôn trọng ấy vẫn còn vẹn nguyên nhưng trên thực tế thì người thầy có đúng vai trò không hay ở góc độ nào đó đã thành “Thợ dạy”? Sau đây, xin phép được đưa ra sự khác biệt tham khảo để ta cùng trả lời câu hỏi trên: NGƯỜI THẦY THỢ DẠY Luôn làm mới bài giảng của mình (cách Răm rắp tuân theo sách giáo khoa, tiếp cận vấn đề, giáo án, phương pháp, đồ dùng chuẩn bị, quy trình lên nội dung bài giảng, tình hình thực tế, ) lớp,cách trình bày bảng, . Lên lớp vì đam mê, mong muốn mang Chỉ là việc cần phải làm nếu muốn lại một cái gì đó cho học trò, phát hiện được trả lương, được đãi ngộ. được cái gì đó mới mẻ từ bản thân, từ học trò Suy nghĩ, trăn trở từ trước khi bước lên Quên luôn công việc của mình khi bục giảng, trên đường về nhà và khi về bước ra khỏi lớp học. nhà; luôn suy nghĩ xem làm thế nào để: cuốn hút HS, tại sao hôm nay HS chưa tiếp thu bài tốt, mình cố gắng lắm rồi sao HS vẫn không tốt hơn, sao HS chưa
  7. 5 tin tưởng tâm sự với mình, để tìm ra giải pháp. Chấp nhận dạy học hoặc tổ chức hoạt Sẽ từ chối phải dạy học hoặc tổ chức động GD kể cả không được một xu nào, hoạt động GD với mức thù lao thậm chí mất thêm tiền của mình (làm không xứng đáng. đồ dùng dạy học, đổ xăng vào thăm nhà HS, ) vì người thầy biết cái họ được không phải là tiền bạc Luôn tìm hiểu rất kĩ từng chi tiết liên Không quá bận tâm HS của mình là quan đến từng HS của mình (trang phục, ai. Nhiệm vụ quan trọng là lên lớp hoàn cảnh gia đình, tư thế ngồi học, tâm đúng giờ, dạy đủ giờ theo đúng quy sinh lý, ánh mắt mệt mỏi, ) định Luôn thấy kiến thức, năng lực, phẩm Không có nhu cầu đọc sách hay bồi chất của mình là chưa đủ, cần phải học dưỡng chuyên môn, học hỏi gì thêm, hỏi, rèn luyện, làm mới, kể cả từ học bởi họ nghĩ dạy mấy đứa trẻ là việc trò. quá đơn giản. Biết tất cả về mọi thứ kể cả những thứ Chỉ cần hiểu biết về môn học/ lĩnh tưởng chừng chẳng liên quan đến nghề vực họ phụ trách. của mình: văn hóa, lịch sử, thông tin quốc tế và trong nước, tâm lý tuổi học trò, . Luôn mong muốn tạo nên một cái gì đó Bằng lòng với việc dạy của mình mới, có thể làm thay đổi một thế hệ, một con người. Hiểu rằng mỗi đứa trẻ là một điều tuyệt Luôn bắt mọi học sinh phải “đổ vừa vời của tạo hóa, có điểm mạnh và điểm khuôn” yếu riêng. Vì vậy, họ luôn tôn trọng “sự khác biệt” của học trò. Biết rằng, mình cũng chỉ là sinh ra trước Thường nghĩ: “Ta là thầy và ta có
  8. 6 học trò một số năm và luôn nghĩ: “Mình quyền” là người hướng dẫn, là bậc đàn anh, là bạn bè, thậm chí có lúc biết mình chỉ đáng là học trò của học trò mình”. Dựa vào bảng phân biệt trên, ta có thể thấy khá rõ hình ảnh của mình (người thầy/ thợ dạy). Đặc biệt, trong thời đại ngày nay thì cần có người thầy bắt kịp xu thế thậm chí đi trước xu thế để tạo ra sản phẩm GD (HS) của mấy chục năm tới chứ không phải để tạo sản phẩm GD (HS) của hiện tại hay của những năm “một chín tám mấy”. Sau khi đã hiểu và soi mình vào đó, thầy/ cô sẽ từng bước chuyển hóa bản thân: “thợ dạy” người thầy; người thầy người thầy vĩ đại (người thầy biết truyền cảm hứng). Bản thân qua quá trình hoạt động nghề nghiệp, với sự thay đổi từng ngày dù là nhỏ nhất cũng đã có những bước chuyển hóa từ "thợ dạy" sang người thầy và chắc chắn là sự chuyển hóa tích cực ấy sẽ còn diễn tiến. 2.2. Người thầy là NGƯỜI TRUYỀN CẢM HỨNG Đây là triết lý GD mới mà ở đó, người học là trung tâm. Trước đây, trong lớp học: người thầy là trung tâm, thầy luôn luôn đúng, những điều thầy nói là chân lý, các trò cứ thế mà làm theo, Điều đó không còn đúng với thời đại ngày nay. Bởi lẽ, những gì thầy biết được (kiến thức) hầu hết là của mấy chục năm về trước mà thầy đã được học. Và tất nhiên, nó sao hoàn toàn phù hợp với bây giờ? Khi mà xã hội thay đổi, tư duy con người khác đi, khoa học đổi mới, thì liệu những cái mà thầy học được ngày ấy còn ĐÚNG mãi cho tới bây giờ? Hơn nữa, cái đích cuối cùng hay còn gọi sản phẩm GD lại chính là người học. Vậy cần phải lấy người học làm trung tâm để từ đó tập trung xây dựng hình ảnh người học ngày một tốt hơn, đẹp hơn. GV không chỉ là người truyền đạt thông tin, mà còn là người truyền cảm hứng. GV chính là sứ giả của sự thay đổi, là ngọn hải đăng của hy vọng. Dưới đây là một số gợi ý giúp người thầy truyền cảm hứng: a) Vai trò của người thầy:
  9. 7 Người thầy cần dạy HS cách sử dụng trái tim tốt hơn: biết lắng nghe, biết đồng cảm, biết chia sẻ, biết sống với cảm xúc thật của bản thân. Và khi chúng ta kết hợp được những thứ đó vào với nhau, chúng ta sẽ có được cái gọi là kỹ năng cảm xúc xã hội. Mỗi người thầy cần ý thức được mình là những người định hướng sự phát triển ở trẻ nên cần gợi ý và dẫn dắt trẻ đi đúng hướng thay vì áp đặt trẻ theo một khuôn mẫu chung. Điều này vô tình đã giết chết sự sáng tạo ở trẻ. Người thầy cần loại bỏ cách GD “đổ đầy” Tư duy “Thầy luôn luôn phải giỏi hơn trò” không mấy phù hợp nữa vì trên thực tế, kiến thức con người thu nhận được bây giờ không chỉ là trên sách vở. Nếu chỉ trên sách vở thì học trò không cần đến trường để học từ thầy cô. Kiến thức có thể có được từ thực tế, từ mạng internet, nên có những điều có thể trò biết mà thầy lại không biết. Người thầy không ngừng cổ vũ, khích lệ để trẻ sáng tạo, thể hiện năng lực tiềm ẩn bên trong. Điều này là vô cùng cần thiết để tạo ra con người của tương lai. b) Kỹ năng thu hút sự chú ý cao nhất của HS đến với truyền đạt của người thầy: “Người thầy giỏi còn là người thầy diễn thuyết tốt”. Do vậy, nếu suốt một buổi học, người thầy cứ thao thao bất tuyệt bằng một tần số, cường độ, tốc độ giọng vừa phải hay quá cao sẽ khiến học trò cảm thấy nhàm chán, thậm chí buồn ngủ hoặc đau nhức đầu và tai. Hãy tạo ra một buổi học hiệu quả bằng cách thay đổi tông giọng, kết hợp hình thể cho phù hợp với nội dung truyền tải. Dưới đây, tôi xin đưa ra một số điều (ngôn ngữ cơ thể) là chìa khóa cho việc thu hút sự chú ý của HS: Ngôn ngữ Từ người thầy đến học trò cơ thể - Khuôn mặt tươi cười, luôn nở - Không bị áp lực; như được Ngoại hình nụ cười kể cả khi mệt mỏi hay động viên là cố gắng lên; hứng
  10. 8 HS chưa làm thầy hài lòng; thú hơn; - Trang phục lịch sự: phù hợp - Được tôn trọng, học được từ với công sở, thoải mái, dễ nhìn, thầy/cô cách ăn mặc phù hợp; dễ hoạt động; - Dáng đi ủ rũ, ánh mắt nhìn - Tạo nến sự không chắc chắn xuống dưới và đôi chân nặng và lo sợ, thậm chí cho thấy sự nhọc; thiếu tự tin và cá tính luồn cúi; Dáng điệu, - Đứng thẳng hai vai, giữ cho - Truyền đạt sự tự tin và quyền cử chỉ đầu ngẩng lên, đi lại linh hoạt; lực; - Khi giao tiếp với HS, hãy đứng - Người thầy là trung tâm sự thẳng và duy trì giao tiếp trực chú ý để có thể “chỉ huy” được tiếp bằng mắt HS - Không nhìn chằm chằm, hãy - Thầy/ cô đang nói chuyện với nhìn mỗi HS bằng ánh mắt chỉ mình và thầy/ cô sẽ chịu trách trong một khoảnh khắc; nhiệm về điều mình nói; - Nhìn bao quát tất cả HS; - Thầy/cô quan tâm và công bằng với tất cả HS Giao tiếp - Ngắt nghỉ thường xuyên, không - HS như được nhắc nhở về sự bằng mắt quá vội vàng, thao thao bất tuyệt; chú ý và trách nhiệm nếu như đang không tập trung hay làm việc riêng; - Nhìn trìu mến khi cần. - Sự tin tưởng, sự động viên, khích lệ. - Âm điệu mạnh mẽ (không quá - Tạo sự chú ý, đưa ra một lớn, rõ ràng, tự tin), chắc chắn; thông báo quan trọng; - Tốc độ nói giữ ở mức chậm - Thấy được thầy/cô tự tin và Âm điệu hơn một chút so với lúc nói củng cố sự quan trọng của chuyện bình thường; thông tin; - Khi hài hước hãy đẩy âm điệu - Thầy/cô là một người hài lên cao một chút hước.
  11. 9 c) Nội dung giảng dạy: Trong GD luôn tồn tại ba câu hỏi để giải quyết mọi vấn đề về một nội dung. Đó là: “Cái gì?”,“Tại sao?” và “Như thế nào?” Nhưng từ trước tới nay, chúng ta thường quen giải quyết hai câu hỏi Cái gì? và Như thế nào? mà quên mất đi điều cốt lõi tạo nên động lực và kích thích trí tò mò, sáng tạo cho HS. Vì thế, người thầy biết truyền cảm hứng là người thầy cần phải tạo điều kiện cho HS được liên tục đặt ra câu hỏi “Tại sao?” d) Suy nghĩ về học trò: Trước hết, người thầy cần hiểu rõ về sự khác biệt và tôn trọng sự khác biệt giữa các học trò. Bởi vì, chúng có những điểm mạnh và điểm yếu khác nhau, các kênh tiếp nhận thông tin vào bộ não cũng khác nhau, môi trường sống khác nhau, Do vậy, người thầy không nên so sánh những đứa trẻ với nhau mà cần giúp mỗi đứa trẻ từng bước phát triển. e) Sự an toàn: Vốn dĩ giữa thầy và trò luôn có một khoảng cách vô hình khiến thầy thường ở vị trí cao hơn và trò cũng e dè, ngại chia sẻ với thầy cô. Vì nói ra sợ không đúng, sợ bị mắng, bị chê cười, sợ sợ sợ rất nhiều. Điều này lâu dần sẽ khiến khoảng cách thầy - trò ngày càng xa, trẻ dần mất đi sự sáng tạo và tư duy phản biện. f) Học hiệu quả: Lĩnh hội kiến thức mà thầy cô trang bị đã không dễ dàng. Nếu không được thực hành, trải nghiệm thì kiến thức đó chỉ là lý thuyết suông. Điều này là vô nghĩa với việc đào tạo con người cho tương lai. Thầy, cô nên cho HS trải nghiệm nhiều sẽ giúp trẻ hiểu rõ vấn đề, nhớ lâu hơn đồng thời tạo hưng phấn cho HS, giúp HS yêu thích môn học và học hiệu quả hơn. g) Môi trường học tập:
  12. 10 Môi trường học tập tưởng chừng không quan trọng, cái quan trọng là phương pháp dạy – học. Thế nhưng, sẽ là sai lầm nếu người thầy không quan tâm đến môi trường học tập. HS được thay đổi không gian lớp học (trong lớp, sân trường, vườn trường, khu di tích, ) hay ánh sáng lớp học, không khí học tập sôi nổi, cũng sẽ tạo sự mới mẻ gây hứng thú cho HS. 2.3. Tôn trọng người học Thầy, cô giáo luôn muốn HS tôn trọng mình. Vậy một câu hỏi đặt ra là “HS có cần được thầy, cô giáo tôn trọng mình?” và “ Nếu thầy, cô giáo không tôn trọng HS thì liệu HS có tôn trọng thầy, cô giáo không?” Hai câu hỏi trên, tôi nghĩ rằng không nhiều thầy, cô giáo đặt ra cho mình nhưng chắc họ sẽ tự trả lời được. Theo tôi, muốn được người khác tôn trọng mình thì trước hết mình phải là người đáng được tôn trọng. Thầy, cô phải tạo cho mình một tấm gương sáng để HS noi theo, phải mực thước, biết sống vì mọi người. Muốn tôn trọng người học, người thầy cần ít nhất một lần “Xỏ chân vào chiếc giày của học trò” dù nó có cũ, có không thơm tho để lắng nghe, để sống với những cảm xúc rất thật của học trò và để tôn trọng chúng. a) Người thầy biết lắng nghe - Người thầy cần “chậm lại một nhịp” để nhìn lại mình, thấy con đường mình đang đi và cảm nhận được khó khăn của học trò. - Người thầy cần có Sự tò mò chân thành. Sự tò mò này không phải là sự can thiệp quá sâu vào đời sống riêng tư của người khác mà đó chính là những câu hỏi kết thúc mở và tập trung lắng nghe, bình tĩnh trả lời. Ví dụ: Con có hy vọng hay ước mơ gì cho bản thân, gia đình hay lớp, trường mình không? Com muốn thầy, cô, nhà trường thay đổi như thế nào? - Người thầy chú ý đến những cử chỉ phi ngôn ngữ của học trò. Điều này đặc biệt cần nhất là đối với những đứa trẻ ít nói, ngại giao tiếp. Thông điệp đứa trẻ thuộc diện này không mấy khi toát lên bằng lời nói. Vì vậy, người thầy phải biết lắng nghe cả những cử chỉ phi ngôn ngữ này của trẻ mới giúp trẻ có cảm giác được tôn trọng.
  13. 11 - Người thầy biết tự suy ngẫm và đồng cảm với học trò. Nhất là khi đối mặt với hành vi có vấn đề. Điều này đòi hỏi sự can đảm, tâm thế sẵn sàng hợp tác, chia sẻ với đồng nghiệp, học trò. Những nhà GD biết lắng nghe luôn thấy được những trải nghiệm mà mỗi con người trải qua như một văn bản phức tạp. Và lắng nghe chính là cách đơn giản nhất để tiếp cận văn bản ấy. Họ hiểu rằng mọi kế hoạch giảng dạy, cuộc họp phụ huynh, đều bắt đầu với một kĩ năng vô cùng đơn giản nhưng quan trọng: kĩ năng lắng nghe. b) Yêu cả câu nói “Con không biết” của học trò Có khi nào thầy, cô ngồi yên tĩnh ngẫm thật kĩ câu nói “Con không biết’ của học trò khi chúng được yêu cầu phải đưa ra câu trả lời? Thầy, cô nghĩ câu “Con không biết” chỉ đơn giản vì rụt rè, bối rối, không chắc chắn của trò hay đó là sự thất vọng, không có hứng thú về tiết học và không muốn tham gia vào giờ học đó? Tôi đã được nghe khá nhiều lần câu trả lời ấy của HS tôi hoặc của HS khác. Nếu thầy, cô không biết lắng nghe, không tôn trọng học trò thì chắc chắn hoặc là trò được cô mời ngồi xuống, bỏ qua để gọi bạn khác hoặc nặng nề hơn còn bị mắng mỏ là không chịu tư duy. Hãy thử nghĩ khác đi xem sao? Biết đâu chúng vì quá sợ điều gì đó nên dù biết câu trả lời cũng không dám nói ra? Biết đâu đó là cơ hội để không phải trả lời vì thầy/ cô mình thường bỏ qua khi mình trả lời “Con không biết”. Như vậy, chúng ta đã khiến học trò chán nản, xấu hổ với bạn bè. Không những thế, chúng ta còn vô tình ủng hộ sự lười nhác, thiếu trung thực của trò. Hãy tôn trọng và lắng nghe học trò! Thầy, cô có thể giúp trò bằng việc đưa ra thêm các câu hỏi như: - Hãy cho cô biết điều mà con biết chắc chắn? - Cô hiểu là con không biết rõ về điều đó nhưng cô vẫn muốn nghe con nói điều con đã biết? - Nếu con đã có một ý tưởng, đó sẽ là? - Hãy thử nói đi con, biết đâu lại là ý hay thì sao?
  14. 12 c) “Gật đầu” với những điều chưa trọn vẹn của học trò Là thầy, cô giáo thì ai cũng muốn học trò đi đúng hướng mình định. Nhưng rất tiếc, sự thật thì lại không hẳn được như ta tưởng. Khi học trò trả lời chưa đúng, đứng lặng im, lúng túng, hầu hết thầy, cô đều cảm thấy không thoải mái, chán nản thậm chí còn có cảm xúc tiêu cực. Nhưng chỉ cần thầy, cô bình tĩnh lại một chút, “gật đầu, nhoẻn miệng cười” với trẻ thôi thì cả hai người, thậm chí cả lớp đều thoát khỏi không khí căng như dây đàn. Bước tiếp theo chỉ việc khai thác và giải quyết vấn đề mà thôi. Bởi lẽ, kể cả người lớn chúng ta cũng có những lúc bước lỡ, chưa tường huống chi là học trò. Hãy cho HS cơ hội được sửa lỗi. Chỉ cần một cử chỉ rất thân mật thôi là học trò đã cảm thấy được tôn trọng, thấy mình có giá trị và tất nhiên vị thế của người thầy được tăng lên rất nhiều rồi. d) Đặt niềm tin nơi học sinh Niềm tin nơi một người là thứ rất khó kiếm nhưng nó lại dễ mất đi. Trong mối quan hệ thầy – trò cũng vậy. Không phải nói quá nhưng nó có thể cứu vớt tâm hồn của một đứa trẻ khỏi sự bế tắc, chán nản và bỏ cuộc. Thực tế, tôi đã có rất nhiều HS tâm sự là nhờ có cô động viên, tin tưởng con mà con Trong đó, có một mảnh thư nhỏ của cô học trò tên N.T.L do tôi chủ nhiệm năm học 2018-2019 từng viết: Ảnh: Mẩu thư do học sinh bị người cha thường xuyên chửi, đánh viết gửi cô vì cô và trò đã có cuộc trò chuyện cởi mở, thấu hiểu.
  15. 13 2.3. Chấp nhận sự khác biệt của người học. Chúng ta không thể tìm đâu ra được hai con người giống nhau hoàn toàn. Vậy tại sao chúng ta lại đánh đồng HS của chúng ta, để rồi đi so sánh chúng với nhau? Việc so sánh chúng với mục đích thúc đẩy chúng cố gắng vươn lên. Nhưng ai dám chắc chắn mình đạt được mục đích ấy? Hay chỉ làm cho sự việc trở nên tồi tệ hơn mà thôi. Tôi nói như thế bởi mỗi người có những điểm mạnh, điểm yếu riêng. Đồng thời, não bộ mỗi người sẽ lĩnh hội thông tin bởi những phong cách hấp thu và tiếp nhận khác nhau rồi đến giai đoạn xử lý thông tin cũng khác nhau. Chắc hẳn, chúng ta từng được nghe những phàn nàn rằng: Sao con cứ quay lên quay xuống thế? Cô thấy con chăm chú đọc sách vậy mà sao con không hiểu gì hết thế? Sao chỉ nghe cô nói, không nhìn lên bảng mà con hiểu nhanh vậy? . Để giải thích cho những thắc mắc trên, tôi đưa ra kết quả khoa học chứng minh như sau: * Có 3 phong cách hấp thu thông tin, đó là V-A-K - V (visual): phong cách hấp thu qua hình ảnh - A (auditory): phong cách hấp thu qua thính giác - K (kinesthetic): phong cách hấp thu vận động. Ở mỗi người, 100% dành cho 3 phong cách này, trung bình khoảng 33,33% cho mỗi phong cách. Trên 35% thì họ sẽ thiên về phong cách đó nhiều hơn. Và mỗi người sẽ sử dụng nhiều phong cách khác nhau để tiếp nhận thông tin, không ai giống ai! * Từ những nghiên cứu trên, tôi ứng dụng vào quá trình dạy học của mình để đạt hiệu quả cao nhất. Ngay từ đầu năm học, tôi có khảo sát các phong cách hấp thu thông tin của HS trong lớp thông qua giao tiếp thông thường, qua hoạt động. Sau đó, phân loại HS theo nhóm phong cách để thiết kế hoạt động phù hợp với các nhóm đó: - Nhóm HS học bằng thị giác: thường thích học bằng các dụng cụ trực quan, ghi nhớ thông tin bằng cách liên kết các hình ảnh, học qua việc hình dung hình ảnh. Do vậy, tôi đã áp dụng như sau:
  16. 14 + Chuyển hóa từ ngữ thành những biểu tượng phải ký tự + Viết từ ngữ hoặc chuyển thông tin thành hình ảnh ra giấy + Lưu lại các ghi chú, công thức bằng chữ in đậm hoặc gạch chân + Cố gắng để HS thấy được cử chỉ, nét mặt, điệu bộ của GV để dễ dàng hình dung, xâu chuỗi thông tin. Ảnh: Đồ dùng dạy-học dành cho học sinh thiên hướng học bằng thị giác Ảnh: Đồ dùng dạy-học dành cho học sinh thiên hướng học bằng thị giác - Nhóm HS học bằng thính giác: thường thích học bằng cách lắng nghe. HS này khá là nhạy cảm với âm thanh nên cần môi trường yên tĩnh để học tập và
  17. 15 hiểu được suy nghĩ, cảm xúc của người khác qua giọng nói. Do vậy, với những đối tượng này, tôi đã áp dụng như sau: + Đổi những hoạt động với hình ảnh bằng hoạt động nghe như kể chuyện theo tranh thay bằng kể chuyện theo lời. + Giao cho nhiệm vụ nghe chuyện, diễn thuyết, bản ghi âm, nghe băng đĩa, để tóm lược thông tin Ảnh: Học sinh có thiên hướng học bằng thính giác tham gia “Vẽ tranh biểu cảm” - Nhóm HS học bằng vận động: thường thích tham gia các hoạt động mà mắt thấy, tai nghe, cảm nhận bằng xúc giác. Những HS này thích được tự học, hoạt động và trải nghiệm, không thích được hướng dẫn trước. Họ khó chịu khi phải ngồi lâu ở đâu một chỗ, thậm chí nổi cáu khi không được hoạt động và khám phá. Đặc biệt, thường sử dụng ngôn ngữ cơ thể, cử chỉ điệu bộ thay cho lời nói. Do vậy, với những HS thuộc nhóm này, tôi áp dụng như sau: + Thay đổi các hoạt động bằng hình ảnh, từ ngữ bằng vận động cơ thể + Tổ chức nhiều hoạt động trải nghiệm, thực hành
  18. 16 + Giao cho các nhiệm vụ lao động chân tay, vận động thay vì các hoạt động ngồi quá lâu một chỗ + Thay vì để HS này ngồi lâu một chỗ thì cho chúng học trong một khoảng thời gian ngắn. + Tạo điều kiện di chuyển cơ thể mỗi khi học để trẻ tiếp nhận thông tin được tốt hơn. + Khuyến khích trẻ tham gia các hoạt động nhóm, thảo luận Ảnh: Hoạt động trải nghiệm làm vườn thực nghiệm giúp học sinh có thiên hướng học bằng thị giác Ảnh: Hoạt động trải nghiệm nấu cháo tại trường giúp HS có thiên hướng học bằng thị giác
  19. 17 Ảnh: Hoạt động trải nghiệm thực hành vẽ hình học giúp học sinh có thiên hướng học bằng thị giác Nếu GV, kế cả phụ huynh học sinh hiểu về phong cách hấp thu của trẻ thì sẽ tạo ra được môi trường học tốt nhất cho trẻ và sẽ có nhiều giải pháp giúp trẻ phát triển bản thân. Do vậy, trẻ cần có phương pháp học tập phù hợp mới đạt hiệu quả. Nếu chỉ dạy theo khuôn khổ chung của xã hội thì chúng ta không giúp trẻ phát huy thế mạnh thậm chí làm kĩm hãm sự phát triển. 2.4. Kỷ luật không nước mắt “ Thi đua là yêu nước, muốn yêu nước thì phải thi đua”. Câu nói này của Hồ Chủ tịch đôi lúc đã bị nhiều người sử dụng chưa đúng mục đích, trong đó có không ít GV. Họ hiểu chưa đúng ý nghĩa của câu nói, rồi vận nó vào thành “ganh đua”, thành quy tắc THƯỞNG – PHẠT. Một ví dụ nho nhỏ thế này: Thầy giáo phát động Kế hoạch nhỏ (gom vỏ lon bia). Lẽ ra đặt chỉ tiêu bằng số lượng (đạt), ai có nhiều hơn thì khen. Nhưng thầy lại nói rằng bạn nào gom được nhiều nhất sẽ được thưởng. Vậy là các trò tích cực gom dưới mọi hình thức để tranh giải “nhiều nhất” ( ganh đua). Rồi lại có 1 trò rất hay thắc mắc, hỏi thầy
  20. 18 nhiều, khiến thầy bị bí. Vậy là thầy không khen trò thông minh mà lại mắng trò. Và thế là bị phạt ! Vậy làm thế nào để có kỷ luật tích cực (Kỷ luật không nước mắt)? Muốn có kỷ luật hay có thưởng – phạt thì phải có Luật. Hay nói cách khác Luật là cơ sở của thưởng – phạt. Nhưng Luật làm cho đời sống con người sung sướng hơn thì đó là Luật, còn Luật làm cho đời sống con người khổ sở hơn thì đó là Lệ, là lộng hành. Vì vậy. khi đưa ra Luật cho lớp học, cho gia đình, thì mọi thành viên phải được quyền xây dựng và được quyền lên tiếng với những điều bất công, vô lý. Khi đã thống nhất rồi thì phải thực hiện, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì lúc này gọi là vi phạm Luật. a) Thưởng/ phạt - Chỉ phạt những lỗi thường xuyên thôi. Lỗi một lần có thể làm ngơ hoặc nhắc nhở nhẹ nhàng (vì không ai là không bao giờ mắc lỗi cả).Vậy lỗi đến bao nhiêu lần thì bị phạt? - Chỉ phạt khi đã có luật, tức là khi có lỗi mới luật mới mắc thường xuyên mới phạt. Vậy như thế nào là thường xuyên? Đó là: Với HS có trí nhớ tốt thì 2-3 lần, HS có trí nhớ không tốt thì có thể nhiều hơn vì khả năng của con người không giống nhau. - Thưởng/ phạt đối với HS chỉ nên dựa trên sự cố gắng, không nên dựa trên kết quả vì nếu khả năng của HS không bao giờ được xếp loại chữ A mà thầy treo giải A thì chẳng bao giờ được thưởng. Điều này dẫn đến phản tác dụng, đó là: HS chán mà bỏ cuộc hoặc HS gian dối, tìm mọi thủ đoạn để đạt được. Ví dụ: Được 1 phần thưởng (vì có cố gắng để đi Bạn A Đi học trễ học) Được 2 phần thưởng (1 dành cho việc có cố Bạn B Đi học đúng giờ gắng để đi học + 1 dành cho việc đến đúng giờ) - Dùng cái MUỐN để thưởng / phạt, không dùng cái CẦN để thưởng/phạt.
  21. 19 CON NGƯỜI CON (cái CẦN) NGƯỜI (cái MUỐN) Ăn, uống, ngủ, thở, vệ sinh, an Yêu thương, tôn trọng, suy nghĩ, phát toàn, hoạt động, sưởi ấm biểu, quyết định, thông tin, giải trí, tôn giáo Ví dụ: Điều để thưởng/phạt Dựa theo cái CẦN Dựa theo cái MUỐN Không học Được uống nước lọc Không được uống nước ngọt, trà sữa, (ý thích) Vứt rác bừa bãi Được đi vệ sinh ở nhà vệ Được đi vệ sinh ở nhà vệ sinh bình thường sinh hiện đại Trêu chọc em Được mua áo ấm Được mua áo ấm và đẹp Những gì vừa là CẦN, vừa là MUỐN thì lấy làm thưởng. Lâu lâu thưởng bị cấm như phạt, nhưng không được cấm tiệt. Nhưng cái MUỐN phải phù hợp. Ví dụ: Nếu con không học bài thì con không được uống trà sữa (MUỐN). Nhưng thực ra con có muốn uống trà sữa đâu nên con chẳng cần phải học, chẳng nghe lời. - Thưởng đối với người này nhưng lại là phạt đối với người kia. Ví dụ: Thầy ra quy định: Bạn nào nộp 15 vỏ chai thì được thưởng, bạn nào không đủ thì phạt. Và bạn A vì nhà không có đủ nên bị phạt. Do vậy, khi đưa ra điều để thưởng cần cân nhắc khả năng đạt được của tất cả HS. b) Có nên thưởng/ phạt bằng cách xếp thứ tự 1, 2, 3, ? (dựa trên tinh thần thắng/thua) - Xếp loại 1, 2, 3, làm cho cá nhân cố gắng nhưng không làm cho tập thể cố gắng, thậm chí gây chia rẽ, hận thù tập thể đi xuống cá nhân trong tập thể không tiến lên được. Do vậy, hãy dùng cách tập thể cùng thắng ( như các nước phát triển: Rác của người này là tài sản của người khác). Khi 2 người có quyền lợi như nhau, họ sẽ giành giật, đối đầu, chia chác nhưng nếu có quyền lợi
  22. 20 khác nhau thì họ sẽ bổ sung, hợp tác với nhau.Vậy chỉ khi có suy nghĩ khác nhau thì mới có quyền lợi khác nhau, bổ sung, hợp tác cho nhau. Ví dụ: Khi được thầy giáo cho một chai có nước lọc. + Nếu cả bạn A và B đều có suy nghĩ là để lấy nước uống thì sẽ có hành động là giành giật nhau. + Nếu bạn A nghĩ chỉ để lấy nước còn bạn B nghĩ chỉ để lấy vỏ chai tái chế thì 2 bạn hợp tác và chia nhau (người lấy nước, người lấy vỏ chai). - Tinh thần Thắng/Thua và tinh thần Cùng Thắng: + Tinh thần Thắng/Thua: đạp người khác xuống để mình vươn lên (so sánh các thành viên trong một tập thể) + Tinh thần cùng Thắng: so sánh từng thành viên với tiêu chí chung hoặc mục tiêu của riêng mình, chứ không so sánh các thành viên với nhau. Ví dụ: HS được điểm cộng nhiều thì được phần thưởng lớn, HS được điểm cộng ít thì được phần thưởng nhỏ (nghĩa là không so sánh các thành viên với nhau) nhưng phần thưởng mỗi người khác nhau vì nhu cầu mỗi người là khác nhau. c) Khen / Chê - Khen nhiều, trẻ sẽ tự mãn (đúng nếu đụng đâu được khen đó, sai cũng được khen). Khen sự thật, chê sự thật sẽ không tự mãn. - Chê là Phạt tinh thần. Muốn trẻ không bị tổn thương thì không chê người làm mà chê hành động của người đó. Tức là chủ ngữ của lời Chê không phải để chỉ đứa trẻ, Ví dụ: Khi đứa trẻ làm đổ mực ra bàn: + Không nên Chê: “Con làm đổ mực ra bàn rồi!” tiềm thức: đó là con hư, khiến trẻ buồn và thành hư luôn. + Nên Chê: “Mực đổ ra bàn rồi!” ý thức: đó là hành động hư (hành động xấu thôi, con không xấu) d) Ra lệnh có giải thích Trẻ được quyền giải thích với người lớn (quyền dân chủ - là nguồn gốc của sáng tạo, đột phá, giải quyết vấn đề và kỹ năng phản biện) Có những bố mẹ hay thầy, cô giáo lệnh cho trẻ: “Không cãi gì hết, ai là bố?” hay “Cô không nghe bất kì lý do gì của con cả, thiếu bài là thiếu
  23. 21 bài.”, .tất cả những hình thức ra lệnh mà không giải thích lý do vì sao sẽ khiến cơ thể trẻ ấm ức, tiết ra chất Cortisol làm giảm quá trình phát triển hoặc phát triển không đều ở trẻ. Trẻ dần mất đi khả năng phản biện, giải quyết vấn đề luôn chậm, sợ sêt. Để phát huy quyền dân chủ cho trẻ, người lớn, thầy cô giáo hãy tấn công vào vấn đề, không tấn công vào con người (chỉ rõ cái sai để sửa). Phải phân tích được cho trẻ: + Động cơ (Tại sao con lại làm như vậy?) + Hành động (Con muốn gì?) + Kết quả (Bài học kinh nghiệm là gì?) Ví dụ: Khi HS lấy trộm tiền của bố, mẹ. GV biết được. GV không nên nói: “Lần sau con không được lấy trộm tiền của người khác vậy nhé”. (HS chỉ biết được hành động, không được giải thích lý do và không hiểu gây ra kết quả gì) Mà nên nói: “Tại sao con lại lấy tiền của bố, mẹ như thế? Con lấy để làm gì vậy?” (HS được giải thích, có thể lấy tiền để mua tăm ủng hộ người mù thì sao – động cơ đúng đắn, hành động sai). Từ đó, GV mới tiếp tục giáo dục HS để từ động cơ đúng đắn có được hành động đúng đắn, kết quả đúng đắn: Lượm vỏ chai bán lấy tiền mua tăm ủng hộ, giúp trẻ hiểu động cợ, hành động và kết quả để tiếp tục làm những việc làm tốt. 2.5. Kích thích sự sáng tạo nơi học trò Một lớp học hạnh phúc phải là một lớp học mà ở đó, người thầy không phải là người “đổ cho đầy” kiến thức còn học trò được thỏa sức trải nghiệm và sáng tạo. Nhưng trên thực tế giảng dạy, GV vì áp lực của chương trình nên phải nhanh cho kịp, thậm chí làm hộ HS rồi không cả có thời gian để khen ngợi HS hay chờ đợi HS trả lời. Điều này đã vô tình “thui chột” sức sáng tạo vô cùng mạnh mẽ trong từng học trò. Để có sự sáng tạo, chúng ta cần có những yếu tố sau: a) Kiến thức cơ bản (nền tảng)